Siêu âm tổng quát
Bệnh De Quervain
Đau vùng cổ tay là một dấu hiệu thường gặp, do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó có tình trạng viêm của bao gân cơ dạng dài và duỗi ngắn ngón cái gọi là hội chứng De Quervain. Tình trạng này tương đối thường gặp và gây nên những biểu hiện đau của vùng cổ tay và phần dưới cẳng tay ngay phía trên ngón cái.
Đánh giá siêu âm bệnh de Quervain
Ultrasonographic Evaluation of de Quervain Disease
TS.BS LÊ LỆNH LƯƠNG
Đặt vấn đề (Introduction).
Bệnh de Quervain là tình trạng viêm bao gân hoạt dịch có liên quan đến lao động tác động đến bao hoạt dịch của gân cơ dạng dài & cơ duỗi ngắn ngón cái. Bệnh gây đau, giảm chức năng và tiến triển gây xơ hóa khu trú với ngón cái bị kẹt hình''cò súng''. Khám siêu âm ở hướng cắt ngang (axial) & hướng mặt (coronal) sử dụng đầu dò phẳng, tần số cao. Đánh giá cổ tay bình thường giúp cho việc xác định giải phẫu bên trong khoang gân duỗi thứ nhất. Sự thay đổi của bao gân được chú ý xem xét đánh giá tất cả bệnh nhân de Quervain (Dầy, phù bao gân, dịch xung quanh bao gân). Siêu âm có khả năng xác nhận chẩn đoán lâm sàng bệnh de Quervain, có vai trò trong việc theo dõi tiến triển trong & sau điều trị căn bệnh này.
Bao hoạt dịch của các gân dạng dài & duỗi ngắn ngón cái có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh viêm như là bệnh de Quervain. Nhà phẫu thuật người Thụy Sĩ đã mô tả hội chứng này đầu tiên năm 1885. Bệnh de Quervain là viêm bao gân hoạt dịch chít hẹp gây suy giảm gân cơ dạng & duỗi ngón cái, ảnh hưởng đầu tiên đến bao hoạt dịch trong vùng khớp quay - cổ tay - gan bàn tay. Bệnh thường có liên quan đến công việc hàng ngày, gây nên các vi chấn thương kéo dài (như đánh máy, làm việc máy tính). Bệnh cần được chẩn đoán sớm để tránh phải phẫu thuật vì bao hoạt dịch dầy & xơ hóa.
HR-US cung cấp hình ảnh rõ nét gân cơ bình thường & bất thường. Hình ảnh cộng hưởng từ với các Coils bề mặt được cân nhắc không thể trội hơn trong bệnh cơ xương khớp, cung cấp độ phân giải cao nhưng không thực hiện được thời gian gian thực. Đánh giá động là cần thiết đối với thăm khám gân cơ. Mặc dù các dấu hiệu siêu âm về gân cơ đã được mô tả khá đầy đủ trong các bài giảng, tuy nhiên các đặc điểm riêng của bệnh de Quervain thì chưa được báo cáo & đề cập nhiều.
Mục đích của bài viết: Nêu ra các dấu hiệu HR - US trong bệnh de Quervain.
Giải phẫu bình thường (Normal anatomy):
Mặt lưng vùng cổ tay có 6 khoang: Khoang thứ nhất có gân cơ dạng dài & duỗi ngắn ngón cái.
Siêu âm cắt ngang (hình 1) xác định mặt sau mỏm châm quay, xương thuyền, xương thang và 2 nhóm gân với bao hoạt dịch của nó: 1 cái bên ngoài bao gồm các gân dạng dài & duỗi ngắn ngón cái, được xác định rõ và tách riêng hoàn toàn. 1 cái bên trong chỉ gồm gân cơ duỗi dàn ngón cái. Nằm giữa xương & gân là động mạch quay thường nhìn thấy.
Cắt hướng mặt (hình 2) dọc theo nhóm gân ngoài có thể quan sát rõ đến đầu xa nhưng không thấy cả 2 nhóm gân.
Các gân thể hiện các sợi bình thường đk # 1.5 ± 0.2mm, ngược lại bao gân được xác định đường giảm âm dầy khoảng 0.6 ± 0.3mm.
Hình ảnh giải phẫu gân dạng dài & duỗi ngắn ngón cái
Hình ảnh tổn thương viêm gân
Bệnh de Quervain (De Quervain disease):
Lâm sàng:
Bệnh thường gặp nữ, liên quan tới công việc sử dụng nhiều hoạt động gân dạng dài & duỗi ngắn ngón cái.
Đau nhức, hạn chế vận động ngón cái tư thế dạng & duỗi ra, dấu hiệu ''cò súng''
Tại chỗ: Sưng nề
Nữ giới, liên quan đến công việc máy tính
Siêu âm độ phân giải cao HR-US:
Những thay đổi do thoái hóa của bao gân gặp ở tất cả BN bệnh de Quervain giai đoạn cấp. Các thay đổi thấy trên HR - US bao gồm:
Bao gân dầy lên & mất cấu trúc bình thường:
Hầu hết bao gân dầy hơn bình thường: > 1mm (5 ± 2mm) và không quan sát thấy cấu trúc các lớp bình thường, thường bị gián đoạn bởi nhiều vùng giảm âm nhỏ. Các gân bị chèn ép là do các bao gân dầy lên nhưng nó không liên quan đến quá trình thoái hóa bời vì cấu trúc bình thường của nó là không thay đổi (các đường tăng âm song song, không bị gián đoạn).
Dịch bên trong bao gân (Một số trường hợp)
Có thể thấy 1 lớp dịch giảm âm nằm giữa bao gân & gân làm cho gân bị chèn ép đáng kể.Trong trường hợp này cấu trúc của bao gân & cấu trúc dịch đều giảm âm tương tự nhau (hình 3) do quá trình viêm bao gân nên khó phân định rõ ràng giữa dịch & bao gân.
Sự hồi phục sau điều trị & tiến triển sang giai đoạn mạn tính:
Phục hồi sau điều trị biểu hiện sự mỏng dần của bao gân, tuy nhiên so với bình thường vẫn còn dày hơn thường từ 3±1mm & cấu trúc âm cung thấp hơn bình thường (hình 7).
Bệnh tiến triển sang giai đoạn mạn tính bao gân vẫn dầy, giảm âm & mất cấu trúc bình thường.
Điều trị:
NC của Weiss et al (1994)
Phương pháp Điều trị
| Kết quả
| ||
Số lượng | Thành công
| Thất bại | |
Tiêm thuốc Đơn thuần | 42 | 29 (69%) | 13 |
Băng cố định đơn thuàn | 37 | 11 (30%) | 26 |
Tiêm + băng Kết hợp | 14 | 8 (57%) | 6 |
Điều trị bảo tổn:
- Hạn chế vận động:
- Thuốc chống viêm
-
Tiêm steroid + Lidocaine
Nếu sau 4 - 6 tuần không khỏi hoặc trường hợp nặng tiến hành tiêm:
Steroid + Lidocaine
Phẫu thuật:
Nếu 2 lần tiêm, triệu chứng vẫn còn trong 4 tháng tiến hành phẫu thuật giải phóng xơ sẹo quanh gân.

